Lòng dân không phải lúc nào cũng đúng
Ở các nước tư bản, với nền chính trị đa
nguyên, thông qua lá phiếu người dân, một đảng có thể chiếm đa số quốc hội và lãnh
đạo họ là nguyên thủ quốc gia. Đảng đó nắm quyền hoàn toàn là do ý nguyện, lòng
dân. Có một trớ trêu là không phải lúc nào lòng dân cũng đúng. Lịch sử các nước
cho thấy rất nhiều lần dân chúng chọn sai đảng và đưa những tên gian hùng chính
trị lên chiếc ghế quyền lực, nhưng họ sẽ sửa sai ở lần bỏ phiếu sau. Đảng và vị
nguyên thủ đó bị hạ bệ. Điều gì sẽ xảy ra nếu một đảng nào đó nhân lúc dân bầu
cho mình ở thế quá bán liền họp quốc hội sửa hiến pháp thông qua điều 4 ghi
đảng mình được độc tôn lãnh đạo vĩnh viễn? Thật buồn cười đúng không? Vì sao
vậy? Vì đây là một hành động tiếm quyền phi pháp.
Đảng cộng sản thường tuyên bố nhân dân
đã chọn đảng cộng sản, tôi nghĩ họ nói đúng chứ không phải là rêu rao hay ngụy
biện. Bài này chúng ta thử phân tích những yếu tố lịch sử để đưa đến việc nhân
dân “bỏ phiếu” cho ĐCS nắm quyền.
Những dữ liệu giải mật gần đây cho ta
thấy phần nào sự gian dối của các lãnh tụ ĐCS so với những gì họ công bố, họ
tuyên truyền. Điều này cũng không có gì phải ngạc nhiên. Binh pháp Tôn Tử đã
chỉ rõ việc chính trị, quân sự nhiều khi phải giả trá mới thành công. Ngày nay
có một câu hay hơn “chính trị là nghệ thuật của những điều có thể”. Rõ ràng phe
này có nghệ thuật thì chắc chắn phe kia không thể ngồi yên, cũng sẽ phải đầy
mưu mẹo. Theo triết lý trị quốc: lãnh đạo là thuyền, dân là nước. Chính nước
mới đẩy thuyền đi. Thuyền đi trên sông, phải biết xu hướng nước chảy để theo đó
mà đi, xưa nay rất hiếm trường hợp thuyền đi nghịch dòng mà thành công (cha con
Vua Hồ Quý Ly đã đi nghịch dòng nên thất bại).
Vậy dòng sông năm xưa chảy theo hướng
nào mà đưa con thuyền cộng sản đi? Phải công nhận một điều là lịch sử VN giai
đoạn 45-75 đầy biến động, đầy ảo thuật, đầy mánh khóe của các lực lượng tham
gia tiến trình lịch sử. Các màn ảo thuật về pháp lý được các bên tung ra cốt
làm sao tính chính danh thuộc về phe mình. Dù thực tế có thể là xâm lược, giải
phóng, tay sai cho thực dân, tay sai cho quốc tế cộng sản,…nhưng về mặt hình
thức các bên luôn cố gắng ảo thuật: đổi tên, dựng bù nhìn, hô khẩu hiệu cốt sao
có tính chính danh. Vì điều đó mà đây là giai đoạn đầy tranh cãi trong lịch sử
Việt Nam,
phe nào cùng dành cái lý về phe mình. Bài viết này không có ý định đi chứng
minh hay ủng hộ phe nào chính nghĩa, phe nào phi nghĩa. Điều tôi muốn là đi tìm
câu trả lời: tại sao cộng sản giành thắng lợi ở Việt Nam? Điểm qua vài nét tình hình
trong nước, và thế giới lúc bấy giờ
Tình hình trong nước: đất nước bị đô hộ
bỡi giặc Pháp và Vua nhà Nguyễn bù nhìn,
nhân dân một cổ hai tròng lầm than. Đỉnh điểm của lầm than là phát xít Nhật
chiếm đóng Đông Dương gây ra nạn đói Ất Dậu với 2 triệu người chết. Để đồng bào
chết đói nhiều như vậy, Vua nhà Nguyễn không còn xứng đáng để lãnh đạo nhân dân.
Tất cả những chính phủ do chính quyền thực dân Pháp-Nhật nặn ra đều là chính
quyền tay sai cho ngoại bang. Từ thực tế đất nước như vậy nên người dân không có thiện cảm và không ủng hộ những gì
dính dáng đến Pháp vì đó là hình ảnh của sự quay trở lại đô hộ. Chớp thời cơ
Nhật đầu hàng, Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân giành lấy chính quyền. Chính phủ
đoàn kết dân tộc ra đời bao gồm nhiều đảng
phái. Mặt trận Việt
Minh tuy là liên minh tất cả các lực lượng, đảng phái yêu nước ở Việt Nam để đánh đuổi
Pháp-Nhật giành độc lập cho đất nước nhưng nó do ĐCS lập ra và lãnh đạo. Như
vậy công ĐCS trong việc này là lớn và cần ghi nhận.
Tình hình quốc tế: Sau chiến tranh thế
giới hai, thế giới chia làm hai phe rõ rệt: phe cộng sản, đứng đầu là Liên Xô; phe
tư bản, đứng đầu là Mỹ. Hai thế lực, hai ý thức hệ chính trị này chi phối cả
thế giới. Các quốc gia muốn có sự ủng hộ, trợ giúp thì hoặc đứng phe này, hoặc
đứng phe kia. Rất hiếm quốc gia theo trung lập thành công. Với vị trí VN thì
không thể trung lập được, chỉ có thể chọn một trong hai. Việc lựa chọn đó dẫn
đến việc đấu tranh nội bộ ở Việt Nam. Cuộc đấu tranh này ngoài việc
lãnh tụ các phe phái đấu nhau qua cuộc thâu tóm, thanh trừng tổ chức Việt Minh
của ĐCS để nó thành duy nhất của mình mà còn diễn ra trên chiến trường ở hai
lực lượng: Quân đội nhân dân Việt Nam
và quân đội quốc gia Việt Nam.
Quân đội nhân dân Việt Nam
được phe cộng sản chống lưng; quân đội quốc gia Việt Nam được phe tư bản chống lưng.
Trong tiến trình lịch sử vừa thoát ách nô lệ của Pháp, mà Pháp lại là phe tư
bản nên dân chúng ủng hộ quân đội nhân dân Việt Nam của Cộng sản là điều dễ hiểu.
Thực tế chiến trường chứng minh là quân đội nhân dân Việt Nam luôn tuyển quân
được nhiều hơn, dân công tình nguyện động hơn, tinh thần chiến đấu cao hơn, tỷ
lệ đào ngũ thấp hơn bên kia dù điều kiện chiến đấu thiếu thốn, gian khổ và hy
sinh nhiều hơn. Dân ủng hộ Cộng sản ngoài tâm lý ghét giặc Pháp còn vì chủ
thuyết cộng sản. Một chủ thuyết bênh vực cho dân
nghèo với giấc mơ hấp dẫn về thiên đường XHCN. Phần lớn dân ta lúc đó nghèo
khổ, bần cùng nên chọn nó.
Theo phe nào thì phải chấp nhận chủ
thuyết phe đó. Theo cộng sản thì phải diệt hết các đảng khác, phải chuyên chính
một đảng cộng sản lãnh đạo. Điều nghiệt ngã của dân tộc ta là ở chỗ này. Lựa
chọn một đường đi mà ở đó có tính độc đoán, buộc phải sống chết với nó tới
cùng.
Trong lúc tranh tối, tranh sáng của thời
đại và sự thúc bách của lịch sử lúc đó, sự lựa chọn của nhân dân như vậy là hợp
lý và dễ hiểu. Chính vì lựa chọn đó mà dân tộc ta trong thế kỷ 20 đã phải vượt
bao thác ghềnh khủng khiếp, phải trả giá bằng xương máu của cả dân tộc.
Trên quả địa cầu này, bất cứ dân tộc nào
rơi vào hoàn cảnh xuất phát và tình thế lựa chọn như trên đều chọn như ta. Dân
tộc Trung Hoa vĩ đại cũng vậy, họ đã chọn dòng chảy do Mao dẫn lối mà từ chối
Tưởng Giới Thạch, để rồi chính họ phải trả qua những con thác khủng khiếp nhất
của nhân loại, họ để lại gần 100 triệu nhân mạng trên đường đi và hôm nay vẫn
còn gánh chịu những hậu quả của việc lựa dòng năm xưa.
Kết luận: Sự lựa chọn của đám đông dân
chúng luôn là động lực chính để một xã hội, một đất nước tiến lên. Sự lựa chọn
đó có thể do yếu tố khách quan hoặc chủ quan chi phối mà có thể dẫn đến sai lầm.
Đám đông không phải lúc nào cũng đúng. Ngày xưa, dân tộc Việt Nam và nhiều dân
tộc khác đã “bỏ phiếu” cho chủ nghĩa cộng sản cũng là nằm trong số đó. Đây là
điều hoàn toàn dễ xảy ra ở loài người, con người không phải là thánh, do vậy mà
các nước văn minh không cho phép đảng nào độc quyền lãnh đạo, không cho phép cá
nhân hay tổ chức nào độc quyền chân lý. Đây chính là tính khoa học của một chế
độ chính trị đa nguyên, bầu cử tự do và một nền báo chí và xuất bản không bị
kiểm duyệt.
Nhìn lại tình hình đất nước hiện nay, cái
tai họa ở đây là chủ nghĩa cộng sản đã không cho dân có cơ hội chọn lại, điều
mà người dân có thể và có quyền ở thể chế được rêu rao là giãy chết: tư bản. Chính
quyền được chọn lại để sửa sai là điều tuyệt vời ở các xứ tư bản xấu xa mà Mác
và các học trò của mình không bao giờ thấy hoặc không muốn thấy.
K.s Nguyễn Văn Thạnh
Nhân bài viết này xin bàn thêm một điều
mà lâu nay ta hay nghe: ĐCS nhiều lần tuyên bố “chủ nghĩa Mác Lê Nin là chủ
nghĩa khoa học; bách chiến, bách thắng”. Nhiều người nói rằng họ bốc phét theo
kiểu thắng làm vua thua làm giặc. Dưới góc nhìn của tôi điều họ nói là đúng
hoàn toàn chứ không phải huênh hoang. Tôi xin phân tích để ngõ hầu giúp quí vị
có thêm góc nhìn.
Chủ nghĩa Mác Lê Nin là chủ nghĩa
khoa học: điều này họ nói là đúng. Dựa vào
nguyên lý lòng tham và vận hành chủ nghĩa tư bản qua tiền tệ với mục đích tối
thượng là lợi nhuận thì tất cả những luận điểm do chủ thuyết Mac-Lê đưa ra là
hợp logic lý luận, có tính khoa học duy vật biện chứng. Một số hiện tượng xảy
ra trong thực tế: cạnh tranh thâu tóm, chiến tranh đế quốc,…như là những kết quả kiểm
nghiệm cho lý thuyết đó. Việc này là giống với khoa học tự nhiên, khi các nhà
bác học phát hiện ra các nguyên lý. Từ nguyên lý họ xây nên lý thuyết và dùng
thực nghiệm để kiểm nghiệm. Nếu thực nghiệm đúng thì lý thuyết là OK. Sau này
thực nghiệm sai thì phá bỏ xây dựng lý thuyết mới. Các môn khoa học: Lý, Hóa,
Sinh,…có nhiều lý thuyết lớn như lượng tử, hạt nhân, điện từ, nguyên tử, thuyết
di truyền,….đều phát kiến theo qui trình khoa học như vậy.
Rõ ràng thuyết Mác Lê có tính khoa học
rất cao dựa trên logic của lòng tham và dự liệu thực nghiệm đã kiểm chứng một
phần. Nhưng thượng đế đã chơi khăm nhân loại. Nó lại là logic của cái sai và dự
liệu thực nghiệm nó chỉ đúng ở giai đoạn đầu và một số lại ngẫu nhiên xảy ra
đúng cho những tiên đoán lớn (chiến tranh đế quốc-chiến tranh thế giới) nhưng sau
đó nó sai hoàn toàn. Xin tham khảo bài viết này: http://ksnvthanh.blogspot.com/2012/07/con-uong-cua-marx.html
Chủ nghĩa Mác Lê là bách chiến, bách thắng: điều này là có cơ sở khoa học. Xưa Tôn Tử dùng nữ
nhi cung đình yểu điệu luyện binh với phép dụng hình khốc liệt: chém đầu mà tạo
sức mạnh phá được đội quân nam nhân. Sau khi luyện xong, Tôn Tử trình Vua với
lời tâu rằng “bệ hạ có thể ra lệnh, nó có thể vì ngài mà nhảy vào lửa”.
Đội quân công nông non trẻ
của nhà nước vô sản đã đánh bại liên quân 14 nước hùng mạnh và thế lực trong nước
nổi dậy cũng dựa trên nguyên lý tổ chức “ban
chỉ huy của chúng sẽ luôn phải đặt binh sĩ giữa cái chết có thể xảy ra trên
chiến trường và cái chết không thể tránh khỏi ở hậu phương”. Chính cái sự khốc liệt của
pháp hình mà người lính phải ra chiến trường đến chỗ chết. Lịch sử của chủ
nghĩa cộng sản đã ghi danh những chiến thắng quân sự quan trọng: Liên Xô thắng
phát xít Đức, Mao thắng Tưởng Giới Thạch, Việt Nam đánh bại Pháp-Mỹ,….
Lấy Việt Nam ra phân tích để thấy cái bách
chiến bách thắng của chủ nghĩa Mac-Lê. Chủ nghĩa cộng sản đã thiết lập nền
chính trị toàn trị độc đảng. Đảng nắm trong tay tất cả quyền sinh quyền sát, cả
kế sinh nhai, cả truyền thông. Hãy xem tâm thế người lính miền Bắc cầm súng vào
chiến trường miền nam. Họ bị tuyên truyền một hướng, kích động lòng yêu nước mù
quáng. Người lính bị bịt mắt chỉ thấy một chiều, bị kích động xem cái chết nhẹ
như không. Họ không thấy được tình hình toàn cảnh, không thấy được sự khốc liệt
của chiến trường. Cả miền bắc chỉ nghe chiến thắng, không bao giờ nghe đến mất
mát hi sinh. Đảng cầm quyền lạm dụng sự hy sinh nhân mạng của lính của dân. Nhiều
trận đánh, nhiều chiến dịch có ý nghĩa vô cùng nhỏ nhưng lượng nhân mạng lại
quá lớn, ngay cả đối phương chiến thắng cũng phải khiếp sợ. Một ví dụ điển hình
như trận đánh Kanak, hay thành cổ Quảng Trị. Giới lãnh đạo không phải có trách
nhiệm trả lời với dân chúng về nhân mạng của lính, không có trách nhiệm trả lời
các câu hỏi cháy lòng của hàng triệu bà mẹ: các ông đã làm gì với con tôi.
Tướng lĩnh dùng sinh mạng lính để đạt mục đích của mình: chiến thắng và thăng
quân hàm. Điều nghiệt ngã chưa dừng lại ở đó: ở hậu phương đảng nắm hết các
nguồn sống, nếu ai chống lại thì cả nhà chết đói. Giới trí thức, văn nghệ sĩ số
phận cũng không hơn (hãy đọc hồi ký một thằng hèn của nhạc sĩ Tô Hải để biết
thêm sự tàn bạo, nghiệt ngã). Xã hội lúc đó quá bần cùng, đói kém, vào quân đội
là phúc lớn, được gửi thân, được ăn no, được mặc ấm. Hãy xem tình cảnh thê thảm
của dân Triều Tiên và lực lượng quân đội của họ thì biết.
Trong điều kiện vậy thì cuộc chiến ở miền Nam dù Mỹ hay
cả thế giới vào cũng phải thua. Sinh mạng binh lính không tiếc, không xót, súng
đạn có Nga-Trung trao vào tay, thậm chí cơm gạo họ lo. Đàn bà phụ nữ hậu phương
sinh đẻ, nuôi con lớn khôn dâng cho đảng mang ra chiến trường, 20 năm là thời
gian đủ để con đỏ ẵm ngửa có thể cầm súng. Như vậy các lãnh đạo miền Bắc mới
hùng hồn tuyên bố: chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm nhưng họ
không sợ và họ tin vào chiến thắng cuối cùng. Rõ ràng là chủ nghĩa Mác-Lê đã
tạo nên đầy đủ các điều kiện để bách chiến-bách thắng.
Chỉ có điều đáng buồn
là nó bách chiến, bách thắng trong chiến tranh chứ không phải trong xây dựng
kinh tế. Thực tế đã chứng minh chủ nghĩa Mác-Lê
dùng để xây dựng kinh tế là thất bại hoàn toàn, kết quả chỉ đưa đến đói nghèo
lạc hậu. Điều buồn thảm cho dân tộc Việt là nhiều người lại ngộ nhận nó bách
chiến, bách thắng trong cả thời bình. Do ngộ nhận vậy nên họ ủng hộ, bám víu và
giữ riết nó. Thật là thảm họa cho dân nước Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét